Lan rộng khắp châu Âu Phục_Hưng

Trong thế kỷ XV, Phục Hưng lan ra với tốc độ mạnh mẽ từ nơi khởi nguồn của nó là Florence, ban đầu là tới các miền khác của nước Ý, tiếp đó là phần còn lại của châu Âu. Sự phát minh của in ấn cho phép sự truyền bá nhanh chóng những ý tưởng mới. Khi lan rộng, các tư tưởng bắt đầu đa dạng hóa và biến đổi, thích nghi với văn hóa địa phương. Điều này khiến cho từ thế kỷ XX, các học giả bắt đầu chia Phục Hưng thành các phong trào vùng miền và quốc gia.

Phía bắc châu Âu

Phục Hưng xảy ra ở miền châu Âu phía Bắc nước Ý (chủ yếu ở Pháp, Đức, Anh, Hà Lan) được gọi là "Phục Hưng phương Bắc". Trong khi những tư tưởng Phục Hưng tiến từ Ý lên phía bắc, đồng thời lại có sự lan truyền đổi mới về phía nam trong một số lĩnh vực, đặc biệt là âm nhạc[93]. Âm nhạc thế kỷ XV của trường phái Burgundy xác định sự bắt đầu Phục Hưng trong ngành nghệ thuật này và tính phức điệu của trường phái Hà Lan, khi nó cùng các nhạc công xuống tới Ý, tạo nên cốt lõi của cái có thể xem là phong cách quốc tế thực sự đầu tiên trong âm nhạc kể từ sự tiêu chuẩn hóa Bình ca Gregoriano vào thế kỷ IX[94]. Đỉnh cao của trường phái Hà Lan cuối cùng lại hiện thực trong âm nhạc của một nhà soạn nhạc người Ý, Palestrina. Vào cuối thế kỷ XVI Ý một lần nữa lại trở thành trung tâm cách tân âm nhạc, với sự phát triển của phong cách phức điệu của trường phái Venezia, lan truyền lên phía bắc tới Đức vào khoảng 1600.

"Sự chiêm bái của các đạo sĩ vào giáng sinh" và "Solomon được Hoàng hậu của Sheba tôn sùng", bộ tranh của Giulio Clovio năm 1546 đánh dấu sự kết thúc của phong cách Phục hưng Ý về "bản thảo được chiếu sáng" (Illuminated manuscript, tác phẩm có trang trí và đường viền)

Tranh Phục Hưng Ý khác với tranh Phục Hưng phương Bắc. Các nghệ sĩ Ý là những người đầu tiên vẽ các khung cảnh thế tục, bứt khỏi nghệ thuật thuần túy tôn giáo của thời Trung Cổ. Ban đầu, các nghệ sĩ Bắc Âu vẫn tập trung vào các đề tài tôn giáo, như những bất ổn tôn giáo đương thời mô tả bởi Albrecht Dürer. Nhưng từ Pieter Bruegel họ bắt đầu chuyển sang các chủ đề của đời sống thường nhật, đi xa hơn về mảng này so với các tiền bối Ý. Chính trong Phục Hưng phương Bắc mà anh em người Hà Lan HubertJan van Eyck đã hoàn thiện kĩ thuật vẽ tranh sơn dầu, cho phép các nghệ sĩ tạo ra những gam màu mạnh trên một bề mặt cứng có thể tồn tại nhiều thế kỷ[95]. Một đặc điểm của Phục Hưng phương Bắc là nó sử dụng ngôn ngữ dân tộc thay vì tiếng Latin hay Hy Lạp, cho phép nhiều tự do biểu đạt hơn. Phong trào này với bắt đầu với Dante Alighieri ở Ý, tuy rằng chính việc chú trọng quá vào tiếng Ý đã làm hạn chế nguồn tư tưởng Firenze quan trọng vốn viết bằng tiếng Latin[96].

Anh

William Shakespeare tác gia tiêu biểu của văn học Phục Hưng Anh đồng thời là nhà soạn kịch vĩ đại nhất của phong trào Phục Hưng nói chung.

Ở Anh, Phục Hưng bắt đầu xuất hiện với thời kỳ hoàng kim dưới triều đại Elizabeth (thế kỷ XVI). Trong khi nghệ thuật tạo hình Anh thời kỳ này không có gì đặc sắc, văn học và nền sân khấu Phục Hưng Anh lại phát triển mạnh với một loạt những nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch lớn như William Shakespeare, Christopher Marlowe, Edmund Spenser, Thomas More, John Milton, Francis Bacon[97],. Trong hội họa, các họa sĩ Anh nổi bật với bức tranh tiểu họa chân dung; trong âm nhạc, ảnh hưởng đậm nét của âm nhạc Ý thể hiện trong các tác phẩm Thomas Tallis, Thomas Morley hay William Byrd[98].

Pháp

Theo Michelet, Phục Hưng lan sang Pháp sau cuộc xâm lược Ý của vua Charles VIII (1494-1495)[99]. Một nhân tố khuyến khích chủ nghĩa thế tục ở đây là sự bất lực của Giáo hội trong việc hỗ trợ đối phó lại Cái chết Đen. Tiếp đó, François I đã du nhập nghệ thuật cũng như các nghệ sĩ Ý, trong đó có Leonardo da Vinci, và cho xây dựng những cung điện lộng lẫy rất xa xỉ[100]. Năm 1533, thiếu nữ 14 tuổi Caterina de' Medici, công nương Firenze cưới Henri con thứ của François. Mặc dù người phụ nữ này mang tiếng xấu để đời trong chiến tranh tôn giáo, Caterina đã đóng vai trò quan trọng trong việc giới thiệu nghệ thuật, khoa học và âm nhạc (gồm cả ba lê) từ Florence tới cung đình Pháp [101]. Kết quả là các nhà văn lớn của Pháp thời kỳ này như François Rabelais, Pierre de Ronsard, Joachim du Bellay và Michel de Montaigne, các họa sĩ như Jean Clouet và các nhạc sĩ như Jean Mouton đã vay mượn nhiều tinh thần Phục Hưng Ý cho các kiệt tác của họ. Thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, sự nở rộ văn hóa ở Pháp cùng trong thời kì nước này vươn lên thành cường quốc hàng đầu châu lục[102] đã khiến cho sử gia Michelet quy cho Phục Hưng là một phong trào văn hóa Pháp[99]

Đức

Vào nửa sau thế kỷ XV, tinh thần thời đại lan tới Đức, nơi phát triển kỹ nghệ in (khoảng 1450) và các nghệ sĩ Phục Hưng thời kỳ đầu như các họa sĩ Jan van Eyck (1395–1441) và Hieronymus Bosch (1450–1516) và các nhà soạn nhạc Johannes Ockeghem (1410–1497), Jacob Obrecht (1457–1505) và Josquin des Prez (1455–1521) hưởng ứng ảnh hưởng Ý. Trong các miền theo Kháng Cách ban đầu của đất nước, chủ nghĩa nhân đạo trở nên liên hệ chặt chẽ với sự hỗn loạn của Cải cách Kháng Cách, và nghệ thuật cùng văn chương của Phục Hưng Đức thường phản ánh tranh cãi này[103].

Tuy nhiên, phong cách gothic và triết học kinh viện Trung đại vẫn duy trì đáng kể cho đến đầu thế kỷ XVI[104], với Albrecht Dürer (1471-1528) thường được xem là đại diện lớn cuối cùng của phong cách Gothic nhưng đồng thời cũng là họa sĩ lớn nhất của nghệ thuật Phục Hưng Đức [105]

Miền Flander

Erasmus của Rotterdam năm 1523, tranh minh họa bởi Hans Holbein Trẻ

Xứ Flander (Bỉ, Hà Lan và một phần Đan Mạch ngày nay) ở thời Trung Đại là tập hợp những tỉnh tự trị dưới quyền Công quốc Burgundy hoặc Tây Ban Nha. Đây là một trong những vùng giàu có nhất Bắc Âu thế kỷ XV với công nghiệp dệt và thương mại[106]. Sự thịnh vượng và giao thương với nước Ý giúp tạo nên một tầng lớp họa sĩ, nhà soạn nhạc xuất sắc sang Ý lưu diễn; ngược lại nhiều nghệ sĩ Ý cũng sang miền này hoạt động[107]. Tuy nhiên, ảnh hưởng tôn giáo trong nghệ thuật Hà Lan sâu đậm và kéo dài. Chỉ từ nửa sau thế kỷ XVI, hội họa Hà Lan với phong cách Baroque thiên về mô tả các cảnh sinh hoạt đời thường mà đại diện tiêu biểu là Pieter Bruegel Già. Âm nhạc Bỉ trong trường phái Pháp-Bỉ trở nên thống trị nền âm nhạc châu Âu với các nhạc sĩ xuất sắc như Josquin des Prez, Guillaume Dufay, Johannes Ockeghem. Văn học không phải là một đặc sắc của Phục Hưng ở Flander, nhưng đây là quê hương của Erasmus "hoàng tử của chủ nghĩa nhân văn", nổi tiếng với các luận văn đả kích sâu cay tăng lữ và chủ nghĩa kinh viện.[108]

Iberia

Tây Ban Nha

Phục Hưng đến bán đảo Iberia thông qua những dính líu của miền Đông bán đảo nằm trong Vương vị Aragon (một liên bang Địa Trung Hải bao gồm Nam Ý, một phần Tây Ban Nha, các đảo Sicilia, Corse, Malta) và thành phố hải cảng Valencia. Mặt khác, nhiều nhà văn Phục Hưng Tây Ban Nha sớm nhất đến từ Vương quốc Aragon, như Ausiàs MarchJoanot Martorell. Ở Vương quốc Castile, thời kỳ đầu Phục Hưng đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của chủ nghĩa nhân văn Ý. Íñigo López de Mendoza đã giới thiệu thơ ca Ý vào Tây Ban Nha đầu thế kỷ XV, tác động tới một thế hệ nhà văn kế tiếp đó, tiêu biểu là Miguel de Cervantes và nhà thơ, nhà viết kịch Lope de Vega. Chủ nghĩa nhân văn nở rộ ở đây đầu thế kỷ XVI, với những đại diện như triết gia Juan Luis Vives, nhà ngữ pháp Antonio de Nebrija hay nhà lịch sử tự nhiên Pedro de Mexía[109].

Giai đoạn sau của Phục Hưng Tây Ban Nha chứng kiến sự chuyển trọng tâm sang thuyết huyền bí và các chủ đề tôn giáo, với các nhà thơ fray Luis de León, Têrêsa thành ÁvilaGioan Thánh Giá, và đề cập tới cuộc khám phá Tân Thế giới, với những nhà biên niên sử và nhà văn như Inca Garcilaso de la Vega hay Bartolomé de las Casas, hợp thành nền văn học Tây Ban Nha Phục Hưng. Cũng giai đoạn này nghệ thuật Tây Ban Nha có những tiến bộ, với các tác phẩm của họa sĩ El Greco và các nhà soạn nhạc như Tomás Luis de VictoriaAntonio de Cabezón[109].

"São Pedro Papa", 1530-1535, bởi Grão Vasco Fernandes. Một tác phẩm đỉnh cao của thời kỳ mà Phục Hưng Bồ Đào Nha có ảnh hưởng đáng kể ngoài nước.

Bồ Đào Nha

Trái lại, trong khi Phục Hưng Ý có ảnh hưởng khiêm tốn đối với nghệ thuật Bồ Đào Nha, chính quốc gia này lại có tầm quan trọng trong việc mở rộng thế giới quan châu Âu[110], khuyến khích tinh thần nhân đạo. Như một căn cứ tiên phong của Thời đại khám phá, Lisboa trở nên thịnh vượng vào cuối thế kỷ XV, thu hút các chuyên gia đã tạo nên những đột phá trong toán học, thiên văn học và kỹ thuật hàng hải như Pedro Nunes, João de Castro, Abraham ZacutoMartin Behaim. Các nhà bản đồ học Pedro Reinel, Lopo Homem, Esteban GómezDiogo Ribeiro làm nên những tiến bộ quan trọng trong việc vẽ bản đồ thế giới[111]. Dược sĩ Tomé Pires cùng các bác sĩ Garcia de OrtaCristóbal Acosta sưu tầm và xuất bản những cuốn sách về thực vật và dược liệu [112].

Trong kiến trúc, lợi nhuận khổng lồ từ việc buôn bán hồ tiêu cung cấp tài chính cho một phong cách tổng hợp đầy xa xỉ trong những thập niên đầu của thế kỷ XVI, Manueline, gắn với các yếu tố hàng hải[113]

Đông và Nam Âu

Tòa thị chính Poznań (Ba Lan) xây dựng bởi Giovanni Battista di Quadro trong khoảng thời gian 1550–55

Hungary

Hungary là nước châu Âu đầu tiên tiếp nhận sự lan truyền của phong trào văn hóa Phục Hưng từ Ý[114]. Phục Hưng ở Hungary diễn ra sớm do sự gần gũi về văn hóa và thương mại với miền Nam Ý, bắt đầu từ thời hoàng đế Sigismund nhưng trở nên nổi bật dưới thời vua Mátyás Corvin (1458-1490), người cưới công chúa Beatrice của Naples và là một nhà bảo trợ nghệ thuật nổi tiếng, xây dựng lại Buda theo phong cách Phục Hưng[115][116]. Buda trở thành một trong những trung tâm nghệ thuật chính phía nam Alps bấy giờ[117], nơi có thư viện thế tục Bibliotheca Corviniana lớn nhất châu Âu[118]. Đây cũng là nơi quy tụ nhiều nghệ sĩ, học giả nổi tiếng như nhà thơ Junus Pannonius, nhà sử học Antonio Bonfini, nhà soạn nhạc Bálint Bakfark[117].

Ba Lan

Một bia mộ thời Phục hưng từ thế kỷ 16 của các vị vua Ba Lan trong Nhà nguyện SigismundKraków, Ba Lan. Nhà nguyện mái vòm vàng được thiết kế bởi Bartolommeo Berrecci

Ở Đông Âu, Ba Lan khi đó đang được hưởng một nền hòa bình và thịnh vượng tương đối dài. Nhiều nghệ sĩ Ý đã đến đây cùng với Bona Sforza, tiểu thư nhà Sforza kết hôn với vua Zygmunt I năm 1518[119], cũng như dưới sự đặt hàng của giới quý tộc và trưởng giả nơi đây. Nhiều thành phố được xây lại theo phong cách kiến trúc Gothic, đáng chú ý là KrakówGdańsk.[120]. Hàng loạt trường học, đại học được xây dựng, trong đó Học viện Kraków là đại học có quy mô lớn nhất châu Âu đương thời[121]. Đây chính là thời kỳ được xem là thời hoàng kim của văn hóa Ba Lan, với các nhà học giả lớn như Copernicus, nhà địa lý học Maciej of Miechów, nhà triết học chính trị Andrzej Frycz Modrzewski, các nhà thơ như Miklaj Rej, Jan Kochanowski hay Szymon Szymonowic, nhạc sĩ Wacław z Szamotuł[122]. Ba Lan trở thành trung tâm văn hóa của Đông Âu, góp phần truyền bá tới các nước khác trong khu vực, chẳng hạn như Nga. Nga tiếp nhận Phục Hưng tương đối muộn và chậm chạp do vị thế của Chính thống giáo, nhưng có những nét riêng đặc sắc như kiến trúc Gothic Nga với những mái đa giác[123]